Đại Lôi Thần Tướng

Chương 8 - Cuồng Lôi Rợp Trời

Chương 8: Cuồng lôi rợp trời

Cái chết của Andrea và josie lẽ đương nhiên là cú sốc lớn lao đối với bá tước Philip, còn đối với cha mẹ của Josie lại càng bi thương hơn. Hai ông bà già cả đời chỉ có một đứa con gái, mặc dù người châu Âu không có quan niệm nuôi con để phòng tuổi già, nhưng vẫn là chỗ nương tựa duy nhất trong những ngày tháng cuối đời.

Do đó, khi Hạng Đào nói ra dự tính của mình, bá tước chẳng chút đắn đo bằng lòng ngay.

Nhưng nghĩ lại, bá tước càng nhận thấy không thể nào lý giải được đứa trẻ mới mười tuổi này. Ông rất muốn biết, Hạng Đào thật ra lai lịch thế nào?

Khởi tử hồi sinh!

Nghe thì đơn giản, nhưng châu Âu suốt mấy ngàn năm lịch sử chỉ có người sáng chế ra thuật Luyện Kim mới từng hoàn thành được kỳ tích ấy.

Sự hồi sinh của Chúa Jesus chính là nhờ các sứ đồ của Ngài chung sức mà nên.

Nhưng đó cũng là nhờ vào sức hùng mạnh của bản thân Chúa Jesus. Bằng không, cho dù các sứ đồ của Ngài tài giỏi đến mấy cũng không thực hiện được.

Huống hồ, Andrea và Josie chỉ là người phàm, Hạng Đào cũng chỉ là đứa bé chỉ mười tuổi.

Chàng quả thật có thể thực hiện kỳ tích đó sao?

Bá tước rất hoài nghi, nhưng chỉ cần có một tia hy vọng là ông cũng không chịu bỏ qua. Còn cha mẹ của Josie càng không dám tin, nhưng dưới sự khuyên giải của bá tước, hai ông bà cũng miễn cưỡng chấp nhận. Dù sao, nếu Hạng Đào quả thật thực hiện được, Josie sống lại chẳng phải là ước muốn của họ sao?

Do đó, thi thể của Andrea và Josie chưa mai táng.

Trong tang lễ, bên trong hai chiếc quan tài chỉ có quần áo của hai người. Trước tang lễ, thi thể của họ đã được lén lút chuyển xuống tầng hầm. Tầng hầm của lâu đài Philip sâu đến 80m, diện tích còn rộng hơn gấp đôi lâu đài. Xưa kia khi gia tộc Philip tiếp nhận lâu đài này, vì phòng nguy hiểm và tiện cho việc luyện tập thuật Luyện Kim, trải qua hằng trăm năm mới hoàn thành tầng hầm này, Lúc bấy giờ, đó là một việc hầu như không thể thực hiện, và cũng kể được là một kỳ tích xuất sắc.

Hạng Đào không dự tang lễ, một là do lệnh của Tòa Thánh, hai là chàng không muốn lộ diện.

Trong mấy ngày ngắn ngủi chàng đã phải chịu đựng biết bao ánh mắt khiếp sợ, chẳng những của các cao thủ trong gia tộc, mà còn kể cả những người yêu thương chàng từ thuở bé.

Ông bà ngoại tuy vẫn thương yêu chàng như trước, nhưng thần thái biểu lộ trong ánh mắt họ đã khiến Hạng Đào rất buồn, đó là ánh mắt đề phòng và sợ sệt.

Nên sau khi thi thể của vợ chồng Josie chuyển xuống tầng hầm, Hạng Đào cũng xuống đó cùng với Didi.

Và ở trong gian phòng nơi cửa ra vào tầng hầm là “Khai Thang Thủ” Jack, một cuồng ma sát nhân hồi 300 năm trước ở London.

Trước khi vào tầng hầm, Hạng Đào đã tặng cho bá tước lôi quyết nhập môn hoàn chỉnh của Kiếm Tông do chàng ghi chép, đồng thời còn lén tặng cho Jack phương pháp tu luyện hai giai đoạn Thính Kiếm và Dưỡng Kiếm; còn như họ luyện thành hay không, chẳng liên quan đến Hạng Đào.

Chàng đã bỏ ra ba ngày để hiểu rõ địa hình của tầng hầm. Sau đó xin bá tước chi ra mười triệu Euro thuê người đào lấy một tảng băng đen vạn năm to lớn ở độ sâu 800m dưới lòng đất Nam Cực, đặt trong tầng hầm với tác dụng giữ cho thân thể vợ chồng Josie không bị hư hoại. Sau cùng, chàng đã bố trí một thế trận của Kiếm Tông trong tầng hầm hầu cố định hồn phách của vợ chồng Josie, nhưng vậy chưa đủ, chàng còn định tạo ra một pháp khí định hồn cho cha mẹ.

Đạo pháp của Kiếm Tông với “khí” là chính. Đạo pháp của Kiếm Tông bao gồm cả trận pháp.

Pháp khí định hồn tức là kết hợp khí với trận pháp, điều ấy tuy không khó, nhưng thực hành thì chẳng dễ dàng.

Pháp khí định hồn phải cần một số vật liệu đặc biệt, rất hiếm có ngoài thị trường, nếu có thì cũng rất đắt và cũng rất nhiều người tranh mua.

Hơn nữa, trận pháp định hồn trong pháp khí định hồn bằng cách nào hòa hợp với khí?

Đó cũng là một vấn đề nghiêm trọng, vì trong ấn ký của Lôi Tiếu Thiên và Doanh Chính không có ghi chép về điều này, có lẽ vì họ chưa từng thử nghiệm, vậy chứng tỏ sự hòa hợp giữa trận pháp với khí hết sức rắc rối.

Hạng Đào nghiên cứu suốt một tuần, nhận thấy điều khó khăn nhất là bằng cách nào có thể khiến cho khí và trận pháp cùng lúc dao động, sau đó mới có thể hòa hợp.

Suy nghĩ mãi không có kết quả, Hạng Đào hết sức buồn bực.

Và bên cạnh Hạng Đào cũng chẳng có người nào có thể tham mưu cho chàng. Jack không được, Didi… Ha, càng khỏi phải nói.

Thế là, Hạng Đào đành tạm gác vấn đề ấy sang bên.

Trước tiên chàng gọi Didi đến, truyền cho Didi thuật Thính kiếm của Kiếm Tông cùng với Thốn Tâm chỉ, tuyệt học của dòng họ Hạng.

Didi tính tình linh lợi hiếu động, trong khi phương pháp dưỡng khí của Kiếm Tông đòi hỏi một chữ “tịnh”, điều này Didi không làm được, nếu miễn cưỡng tiến hành thì kết quả cũng chỉ được nửa phần. Còn đạo pháp Kiếm Tông thì từ ngoài vào trong, tu luyện từ ngoại công dường như thích hợp với tính tình của Didi hơn. Đặc biệt là sở thích đối với binh khí của Didi, người thường khó thể hiểu nổi.

Kiếm pháp Thốn Tâm chỉ gồm 9 pho, mỗi pho 9 chiêu, tổng cộng 81 chiêu kiếm. Khi xưa để ghi nhớ môn kiếm pháp này, Hạng Đào đã phải mất thời gian một tháng. Nhưng Didi chỉ mất một tuần đã nhớ nằm lòng mọi biến hóa của chiêu thức.

Đó không khỏi khiến Hạng Đào cảm khái, Didi đúng là một thiên tài luyện kiếm, lý giải về kiếm thuật còn trội hơn Hạng Đào.

Sau khi tu luyện được một tháng, dưới sự thúc đẩy bởi tiên lực Ngũ Lôi của Hạng Đào, Didi nhanh chóng tiến vào Thính kiếm tiền kỳ, và bắt đầu bế quan lần đầu. Nhân cơ hội này, Hạng Đào đã có thời gian rời khỏi tầng hầm, cùng Jack đến thư phòng của bá tước.

- Ông nội, cháu muốn học chữ Hán!

Hạng Đào đưa ra yêu cầu.

Đành chịu thôi, khi xưa chàng chỉ học hầu hết là chữ Hán cổ, thật khác quá xa với chữ Hán phồn thể và giản thể hiện nay.

Tuy chàng là người Trung Quốc, nhưng ngay cả những chữ căn bản nhất cũng không viết được, thật đáng xấu hổ. Vả lại, chàng còn một dự tính; nghe đâu ở Trung Quốc có một quyển Đạo Tạng, trong đó ghi chép điển tích mấy ngàn năm của đạo gia. Mặc dù Kiếm Tông không có quan hệ với đạo gia, nhưng biết đâu có thể giúp chàng mở mang chút ít. Sau khi bá tước đáp ứng yêu cầu của chàng, chàng lại còn “được voi đòi tiên”, lấy thêm một bộ kinh điển Phật Tạng.

Về Phật giáo, Hạng Đào đã nghe nói đến trong lúc đi học. Thày giáo của chàng cũng là một tín đồ Phật giáo, trong một cơ hội ngẫu nhiên, ông đã với người bàn về lý luận của Phật giáo, khiến Hạng Đào được mở mang rất nhiều.

Bá tước dĩ nhiên không từ chối yêu cầu của Hạng Đào, gật đầu chấp thuận.

- Ông nội đã bảo là mời thuật sư phương Đông về đây làm giáo sư của cháu, đúng không?

Sau khi hoàn thành mục đích chính, Hạng Đào không nén được hỏi.

Bá tước đỏ mặt, ngượng ngùng hồi lâu mới khẽ nói:

- Alex, chẳng phải ta không tìm giáo sư cho cháu, mà là tìm khó quá. Hai tháng trước ta đã phái người sang Trung Quốc, kết quả... những thuật sư phương Đông thật sự tài giỏi hầu hết đã quy ẩn, lánh xa cõi đời. Còn những người mang danh thuật sĩ cũng chỉ là một bọn mua danh trục lợi, không xứng đáng làm giáo sư của cháu. Nhưng cháu yên tâm, ngoài Trung Quốc, ta còn phái thêm người đến Đài Loan và Nhật Bản, hy vọng là có kết quả.

Hạng Đào gật đầu, không hỏi tiếp nữa.

Bá tước nói không sai, những thuật sĩ thật sự tài giỏi không bao giờ màng đến công danh trần đời, Lôi Tông phiệt chủ khi xưa chính là một người như vậy.

Hạng Đào đã sống ở Pháp mười năm, đối với sự hiểu biết về Trung Quốc đa phần là có được từ Andrea và Josie.

Nhưng vợ chồng Andrea cũng hiểu biết rất ít về Trung Quốc, ngoại trừ một số điều căn bản, những thứ khác đều mù tịt. Chàng chỉ biết Đài Loan hồi hơn hai ngàn năm trước chỉ là một đảo hoang không người ở, còn Nhật Bản thì có nghe Josie nói, đó là một quốc gia có hận thù khó thể hóa giải với Trung Quốc.

Họ cũng có thuật sư ư?

Hạng Đào lắc lấy lắc đầu, đi ra khỏi thư phòng.

Mấy hôm sau, bá tước mời về một du học sinh Đài Loan của trường đại học Turan, mỗi ngày phụ trách dạy hai giờ chữ Hán cho Hạng Đào.

Do bá tước lo lắng Hạng Đào không biết Trung văn, nên hết sức kén chọn du học sinh dạy cho Hạng Đào. Tiếng Pháp nếu không qua được điểm số tef thì khỏi cần xem xét. Hơn nữa, cần phải lưu trú ở pháp từ 5 năm trở lên, không thì rất khó lý giải văn hóa Pháp.

Về điểm này, tinh thần đồng đội của người Trung Quốc khiến rất nhiều người nước ngoài phải đau đầu.

Nhiều người Trung Quốc sau khi ra nước ngoài luôn tụ tập với nhau, nói tiếng Trung Quốc, ăn đồ Trung Quốc và ở cùng một nơi.

Như vậy, người nước ngoài rất khó tiến vào lãnh vực của họ, đồng thời họ cũng khó tiến vào lãnh vực của người nước ngoài. Đó chính là nguyên nhân phố người Hoa được thành lập.

Nghe đâu, nhiều người được sinh ra trong phố người Hoa, cả đời cũng không bước chân ra khỏi nơi trú ngụ, thậm chí một câu nói của người bản xứ cũng không biết.

Giáo sư do bá tước chọn lựa cho Hạng Đào là một người có hai dòng máu, cha là người Đài Loan, mẹ là người Pháp, thuở bé sống ở Đài Loan, lúc mười tuổi sang Pháp, đã cư trú ở Pháp 6 năm.

Tên cô là Ôn Minh Tuệ, tên tiếng Pháp là Helen, nói tiếng Pháp rất sành sỏi, hiện nay đang theo học thạc sĩ ở Trường đại học Turan.

Khi gặp Ôn Minh Tuệ, Hạng Đào giật nẩy mình.

Cô ấy giống hệt chị dâu Ngu Cơ, mái tóc dài óng ả buông thả tung bay, trang phục Dior trắng, khoác áo choàng Dior cũng màu trắng và dài đến gối chân, mọi cử chỉ đều toát lên vẻ đẹp thanh lịch của người phương Đông, hết sức quyến rũ.

Khi Ôn Minh Tuệ gặp Hạng Đào, cũng hết sức kinh ngạc.

Trước khi đến đây, cô đã nghe nói người cô dạy là con cháu của một gia tộc cao quý nhất nước Pháp, nhưng không ngờ học sinh của cô lại là một người phương Đông. Tuy nhiên, nhìn màu da và mũi của cậu bé, có chút giống người lai hai dòng máu.

Chỉ điều này, Ôn Minh Tuệ đã có thiện cảm với Hạng Đào.

Đi cùng Ôn Minh Tuệ đến lâu đài Philip còn có hiệu trưởng của Trường đại học Turan. Lẽ ra việc này không cần thiết phải có mặt hiệu trưởng, nhưng đối phương là bá tước Philip, một quý tộc Pháp, vua một vùng Turan. Nếu không nhờ cơ hội này, một hiệu trưởng trường đại học nhỏ bé làm sao có dịp được gặp bá tước?

Ông vội cung kính nói:

- Helen, đây là ngài bá tước!

Ôn Minh Tuệ nho nhã thanh lịch, trông chẳng giống một thiếu nữ tuổi 16.

Cô mỉm cười chào bá tước theo kiểu người châu Âu áp má nhau, rồi nói:

- Ngài bá tước, cháu đã nghe danh ngài từ lâu, có điều là không có tư cách viếng thăm!

Bá tước cười hô hố, sau hai câu khách sáo, bèn gọi Hạng Đào đến bên cạnh.

- Helen, đây là Alex cháu ta, cũng là người thừa kế trong tương lai. Thật ra mà nói, ta cũng không hiểu vì sao Alex lại muốn học chữ Hán, nhưng Alex đã muốn thì ta cũng chẳng thể từ chối. Cháu trai này của ta từ bé đã tinh nghịch kỳ quái, cô Helan với Alex tuổi tác tương đương, từ nay mong cô lưu ý giùm cho… À, ta muốn hỏi điều này, Hán văn của cô là của Đài Loan hay của Trung Quốc vậy?

Bá tước thật ra muốn hỏi Helen, Trung văn của cô là phồn thể hay giản thể.

Nhưng Hạng Đào e thẹn cúi gầm mặt, véo một cái thật mạnh vào eo bụng bá tước.

- Lão già này, dám nói mình tinh nghịch kỳ quái, lại còn ở trước mặt con gái… Nhưng mà cô ta giống chị dâu mình quá.

Bá tước đau điếng, nhưng cố chịu đựng, ngoài mặt vẫn mỉm cười.

Nhưng ông hiệu trưởng thì giật nẩy mình, cậu bé trông có vẻ e thẹn này chả lẽ chính là tên cuồng ma sát nhân theo lời đồn?

Vụ thảm án ở phi trường Turan bởi chính phủ phong tỏa tin tức nên ông chỉ loáng thoáng nghe lời đồn đại. Nhưng biệt hiệu tử thần của Hạng Đào thì rất nhiều người biết, tuy mọi người không rõ chàng đã làm gì, nhưng qua cái tên “tử thần” cũng đủ biết chàng hung tàn cỡ nào.

Ông hiệu trưởng có chút hối hận vì đã đề cử Ôn Minh Huệ đến đây, thật ra là tốt hay xấu?

Nhưng Ôn Minh Huệ không hề hay biết, vẫn cười dịu dàng nói:

- Thưa ngài bá tước, cháu biết cả Trung văn của Đài Loan và Trung văn của Đại Lục. Trông tướng mạo của cậu Alex cũng biết là người rất thông minh, từ nay xin ngài quan tâm nhiều hơn.

Lời lẽ thật chuẩn mực. Chẳng hiểu sao, khi nhìn Hạng Đào, Ôn Minh Tuệ tim đập thình thịch.

- Thôi chết rồi… để cho một cô gái giống chị dâu thế này dạy dỗ, nếu mình sinh lòng xằng bậy thì thật có lỗi với huynh trưởng.

Bá tước với ông hiệu trưởng và Ôn Minh Tuệ nói thêm mấy câu, đứng lên tiễn khách.

Trước khi rời đi, Bá tước bảo Fran đưa Ôn Minh Tuệ về nhà, và dặn Ôn Minh Tuệ kể từ nay sẽ do Fran chịu trách nhiệm đưa đón.

Ông hiệu trưởng thở phào.

Fran là ai? Ông là tổng quản của gia tộc Philip. Bá tước không thích lộ diện trước công chúng, mọi việc hầu hết đều do Fran thay mặt giải quyết. Nói trắng ra, ông là chủ nhân thứ nhì của lâu đài Philip.

Theo lời bá tước khi nãy, hẳn ông không nói đùa, xem ra bá tước Philip trong tương lai chắc chắn thuộc về cậu bé phương Đông này. Đó là một tin giật gân, nếu loan truyền hẳn có được một món tiền lớn.

Ông hiệu trưởng nghĩ đến đó, ánh mắt bất giác tiếp xúc với ánh mắt của Fran.

Ánh mắt Fran lạnh cực kỳ, ông hiệu trưởng nhận thấy rất rõ hàm ý bên trong.

- Tất cả những gì đã trông thấy ở đây hôm nay, tốt hơn hết là hãy quên đi, nếu đồn ra ngoài một tiếng, coi chừng cả gia đình ông toi mạng.

Ông hiệu trưởng rợn người, ý nghĩ vừa nảy sinh liền tức tan biến.

Sau khi tiễn ông hiệu trưởng và Ôn Minh Tuệ đi khỏi, bá tước quay sang Hạng Đào nói:

- Alex, cháu có hài lòng về Helen không? Hô hô, tuy hơi lớn tuổi một chút nhưng cũng khá dễ thương, nếu muốn thì cháu phải nhanh tay lên, hẳn là có rất nhiều người xếp hàng chờ đợi đó.

Hạng Đào trợn mắt:

- Lão già thật không đứng đắn!

Dứt lời, chàng chạy nhanh ra khỏi thư phòng, chỉ nghe bá tước ở phía sau ha hả cười to.

Hạng Đào tim đập loạn xạ, tự cánh cáo:

- Đừng có mà theo lão già đó nổi điên… Cô ấy rất giống chị dâu, cho dù không phải chị dâu thì mình cũng không thể có tà niệm, bằng không thật có lỗi với trưởng huynh… Nhưng mà… cô ấy thật quá đẹp. Phải làm sao đây? Phải làm sao đây? Phen này mình chết chắc rồi!

……………………

Kể từ hôm ấy, Hạng Đào bắt đầu học tiếng Trung với Ôn Minh Tuệ hai giờ mỗi ngày.

Ngày đầu tiên, Ôn Minh Tuệ định dùng tiếng Pháp giảng dạy, nào ngờ Hạng Đào lại nói tiếng Trung hết sức lưu loát, tuy rất cổ xưa lạ kỳ, song vẫn khiến Ôn Minh Tuệ giật nẩy mình, buộc miệng nói:

- Chúa ơi, cậu biết nói tiếng Trung Quốc… Vậy mà còn bảo tôi dạy gì kia chứ? Trình độ cổ văn của cậu, tôi không thể nào sánh bằng.

Ôn Minh Tuệ hơi thở thơm phức, trên người tỏa ra hương thơm thoang thoảng.

Đó là hương thơm da thịt trời sinh của người con gái, nước hoa nhân tạo không thể sánh bằng. Hương thơm ấy khiến Hạng Đào ngây ngất, nhưng nghe Ôn Minh Tuệ tức giận trách móc, chàng liền ổn định tâm thần, trợn mắt nói:

- Tôi có bảo cô dạy tôi tiếng Hán đâu. Tôi chỉ bảo cô dạy tôi chữ Hán… Chữ của Đài Loan cũng được, chữ của Đại Lục cũng được, tôi học tất, hiểu không hả?

Hạng Đào cố y tỏ ra vô lễ, để khiến Ôn Minh Tuệ bực tức.

- Alex, cậu là người Trung Quốc, phải có đức tính tốt đẹp của người Trung Quốc. Bất kể cậu mang quốc tịch gì, đi ngoài phố, mọi người cũng xem cậu là người Trung Quốc, hiểu không? Thái độ vừa rồi của cậu rất vô lễ, cần phải sửa đổi, nếu không, tôi từ chức!

- Thôi được, thôi được, tôi vâng lời cô!

Hạng Đào không muốn Ôn Minh Tuệ ra đi, vội gật đầu chấp nhận.

Thế là ngay ngày đầu tiên, Hạng Đào đã bị Ôn Minh Tuệ khuất phục.

Tuy nhiên, thái độ giảng dạy của Ôn Minh Tuệ hết sức nghiêm túc, bất luận phồn thể hay giản thể, Ôn Minh Tuệ đều cầm tay Hạng Đào dạy viết.

Bàn tay nõn nà và mềm mại của Ôn Minh Tuệ nắm lấy bàn tay bé bỏng của Hạng Đào, khiến tâm thần chàng lâng lâng ngây ngất.

Ba ngày trôi qua, Hạng Đào một chữ Hán cũng chưa học được.

- Cậu ngu quá!

Ôn Minh Tuệ sau cùng không còn kềm chế nổi nữa. Nhưng câu nói đó đã xúc phạm nặng nề lòng tự ái của Hạng Đào.

Chàng tức giận nói:

- Tôi ngu hả? Hãy chờ đó!

Nói xong, Hạng Đào lao ra khỏi phòng, lát sau mang trở vào văn phòng tứ bửu gồm bút, mực, giấy, nghiên. Chàng mài mực một cách thành thạo, rồi cầm lấy bút lông, chấm đầy mực, viết lên giấy trắng hai chữ Hán cổ rắn rỏi như vàng đá, sau đó đặt xuống trước mặt Ôn Minh Tuệ.

Ôn Minh Tuệ không dám tin vào mắt mình.

- Đây là hai chữ gì vậy?

Nét viết của Hạng Đào rất rắn rỏi hùng hồn, kèm theo một khí thế hào sảng không sao diễn tả được. Điều quan trọng hơn hết, chữ viết của Hạng Đào là chữ Hán cổ đã thất truyền hơn hai ngàn năm, chẳng những người Trung Quốc sinh sống ở nước ngoài không biết, mà ngay cả các thày thư pháp trong nước cũng chưa chắc đã biết.

Gương mặt mịn màng của Ôn Minh Tuệ đỏ bừng, cô đưa ngón tay thon thả chỉ vào một trong hai chữ hỏi:

- Đây là chữ “Đại”, tôi biết, còn chữ này tôi không biết!

- Chữ “Sở”, nước Sở thời chiến quốc. Ngu quá, chữ Sở mà cũng không biết!

Hạng Đào phảng phất như trở về hồi hơn hai ngàn năm trước, lúc cùng Ngu Cơ luyện chữ, ra chiều hết sức thích thú nhìn Ôn Minh Tuệ mỉm cười.

Ôn Minh Tuệ đỏ mắt, thu xếp cặp, quay người bỏ đi.

- Hứ, khi xưa chị dâu cũng vậy, nói không lại mình là khóc lóc chạy đi mách với ca ca, sao cô gái này cũng vậy thế nhỉ?

Hôm sau, Ôn Minh Tuệ vẫn đến. Cô nhìn Hạng Đào nói:

- Alex, tôi bất kể cậu biết gì, nhưng tôn sư trọng đạo là truyền thống tốt đẹp của người Trung Quốc. Nếu cậu muốn học tốt chữ Hán thì cần phải nghiêm túc... Ngoài ra, tôi muốn cầu xin cậu một điều.

Thấy Ôn Minh Tuệ đến, Hạng Đào đã thức suốt đêm liền thở phào.

- Điều gì?

Ôn Minh Tuệ đỏ mặt:

- Xin cậu dạy tôi viết bút lông, và dạy tôi các loại chữ cổ thời chiến quốc mà cậu biết!

Hạng Đào chau mày:

- Đó là hai điều!

- Cậu dạy hay không?

Ôn Minh Tuệ giận dỗi. Gương mặt xinh đẹp của cô lộ ra một vẻ hết sức quen với Hạng Đào. Trong Khoảnh khắc, Hạng Đào phảng phất như trở về với thời gian hơn hai ngàn năm trước. Trong thành Hội Kê, một cô gái nắm tay chàng, nũng nịu nói: “Ngọc ca ca, thật ra có dạy không vậy hở?”.

Hạng Đào thở ra một hơi dài, cố bình tĩnh trở lại.

- Được, cam đoan như vậy!

Một tháng thấm thoát trôi qua.

Ba tước mang tất cả sách mà Hạng Đào cần chuyển xuống dưới tầng hầm. Vậy càng khiến Hạng Đào bận rộn hơn, ngày thì xem sách cổ dưới tầng hầm, đêm thì học chữ Hán với Ôn Minh Tuệ.

Trải qua hai ngàn năm, kết cấu của chữ Hán đã có nhiều thay đổi.

Hạng Đào như thể đói khát học tập chữ Hán, hấp thu tinh túy của chữ Hán một cách thèm thuồng. Đồng thời, dựa vào ký ức hai ngàn năm trước, chàng nhanh chóng thấu hiểu nội dung của các sách cổ. Mặc dù nội dung trong Đạo Tạng rất đa dạng và phong phú, nhưng đối với Hạng Đào thì cũng không hơn được năm ngàn chữ do Lý Nhĩ Tây để lại khi ra Ải Hàm Cổ.

Cứ thế, thấm thoát lại hai tháng trôi qua.

Lễ Giáng Sinh sắp đến, Ôn Minh Tuệ xin phép bá tước tạm nghỉ ba tháng.

Nguyên nhân rất đơn giản, cô đã ba năm chưa về nhà nên năm nay muốn về nhà đoàn tụ với cha mẹ và hưởng thụ không khí mùa xuân. Vì vậy, cô còn xin phép nhà trường nghỉ ba tháng. Thường thì thời gian lâu như vậy, nhà trường không chấp thuận, nhưng thân phận của Ôn Minh Tuệ nay đã khác, cô là thượng khách của lâu đài Philip, là cô giáo của cháu bá tước, chỉ điều này cũng đủ cho nhà trường chấp thuận yêu cầu của cô.

Hạng Đào có chút quyến luyến. Chàng đã gần gũi với Ôn Minh Tuệ hơn ba tháng qua, trong lòng đã nảy sinh một tình cảm khó tả.

Đừng thấy chàng tuổi còn nhỏ, nhưng thật sự thì chàng là một trai tân già đã có tuổi thọ hơn hai ngàn năm. Cộng thêm sinh sống ở Pháp nhiều năm, quan niệm sống của Hạng Đào cũng có nhiều thay đổi, và cũng loại bỏ nhiều vấn đề về quan niệm cao thượng của giới tính. Nếu Ôn Minh Tuệ mà không quá giống Ngu Cơ, không chừng Hạng Đào từ lâu đã tìm cách phá bỏ tấm thân trai tân của mình rồi.

Mặc dù chàng chỉ mới mười tuổi, nhưng người nhỏ quỷ to.

Tuy nhiên, sự ra đi của Ôn Minh Tuệ đã tạo cho chàng một cơ hội.

Mấy tháng qua xem Đạo Tạng, nhất là đối với những lời giải thích về kinh Đạo Đức đã khiến Hạng Đào mở mang rất nhiều. Trong đầu óc chàng, phương pháp dung hòa Khí với trận pháp đã hình thành, đương nhiên đó chỉ là phôi thai, thành công hay không còn phải thử nghiệm mới biết.

Tháng 12, cuối năm.

Khi buổi học cuối cùng kết thúc, Ôn Minh Tuệ được Fran lái xe trực tiếp đưa đến phi trường.

Hạng Đào đứng trước đài quan sát trên tầng thượng của tòa tháp chính trông theo đến khi xe khuất dạng ở cuối đường, hồi lâu mới thơ thẩn đi xuống như vừa đánh mất gì đó.

Chàng báo với Jack một tiếng, rồi đi vào tầng hầm.

Ba tháng trôi qua, Didi vẫn ở trong trạng thái “thiền”, khiến Hạng Đào hết sức kinh ngạc.

Thông thường, người ngồi thiền chỉ một hai ngày là giỏi lắm rồi, vậy mà Didi đã ngồi thiền suốt ba tháng trời, thật khó chịu đựng nổi. Ngồi thiền càng lâu thì càng hữu ích.

Hạng Đào không hề biết, tiên lực Ngũ Lôi mà chàng đã tặng cho Didi có chứa tinh phách Thần kiếm của Kim tinh Thái Ất. Đối với người tu luyện Kiếm Tông mà có được tiên lực này bảo vệ thật là phúc đức trời ban.

Didi cần phải dung hòa tinh phách Thần kiếm ấy thì mới có thể hồi tỉnh.

Hạng Đào nhìn Didi, nhận thấy Didi đã đạt đến cảnh giới Thính kiếm trung kỳ, ước tính còn phải một tháng nữa Didi mới có thể hồi tỉnh.

Thế là, chàng đã tạo ra một trận pháp ở xung quanh Didi, hầu bảo vệ an toàn cho y.

Hạng Đào đi vào gian phòng đặt linh cữu của vợ chồng Josie, dừng lại bên cạnh linh cữu của Josie. Đã mấy tháng trôi qua, mẹ vẫn mỉm cười như xưa.

Hạng Đào hít thở một hơi thật sâu, khẽ nói:

- Mẹ, bây giờ chúng ta bắt đầu bước thứ nhất!

Đoạn liền vận chuyển tiên lực Ngũ Lôi, một làn sáng vàng kim lờ mờ từ trong người chàng toát ra, rơi xuống dưới chân chàng, hình thành một vòng tròn kỳ dị.

Luyện Kim chỉ thấp thó ánh kiếm màu vàng kim.

Hạng Đào nhắm mắt, chọc mạnh vào bụng mình, máu tươi phún ra, rơi vãi trên mặt đất.

Bình Luận (0)
Comment